Đánh giá kết quả điều trị teo thực quản báo cáo 15 bệnh nhân

About this capture

Alexa Crawls

Alexa Crawls

Teo thực quản được William Durston mô tả lần đầu tiên vào năm 1670. Năm 1913, Richier mổ thắt đường rò khí – thực quản. Năm 1929, Vogt đã mô tả các dị dạng của thực quản, trong đó có thể bệnh rò khí – thực quản. Vào cuối những năm 30, nhiều tác giả đã mô tả các phương pháp nhiều thì mổ chữa teo thực quản. Tới năm 1935, một bệnh nhân (BN) đầu tiên sống nhờ mở thông dạ dày. Năm 1941, Bệnh nhân đầu tiên được mổ cứu sống bằng cắt-thắt đường rò và nối thực quản ngay bởi Cameron Haight. Từ những năm 50, phương pháp mổ một thì đã ra đời và tỷ lệ sống sau mổ ngày một cao nhờ tien bộ của gây mê – hồi sức, của kỹ thuật điều trị trước, trong và sau mổ. Cho tới nay teo thực quản vẫn là một cấp cứu ngoại nhi thuộc loại khó điều trị và tỷ lệ tử vong cao. Tỷ lệ sống phụ thuộc chẩn đoán sớm, kỹ thuật mổ và điều trị trước – sau mổ và tình trạng bệnh nhân(1’2’10’9’12). ở Việt nam: bệnh nhân đầu tiên được mổ cứu sống tại Bệnh viện Nhi Trung ương vào năm 1987(8). Tiêp đó một số” trung tâm ngoại khoa lớn trong nước cũng thông báo kết quả mổ thành công bệnh nhân đầu tiên của mình như Bệnh viện Nhi Đồng I vào năm 1997(6), Bệnh viện Trung ương Huê” vào năm 1998(5)… Tại Bệnh viện Việt-Đức, bệnh nhân được mổ đầu tiên và sống vào năm 2001(11). Tới nay, chúng tôi đã mổ 15 bệnh nhân với kết quả sống 10 và chêt 4 và 1 BN đang điều trị thì gia đình xin về. Chúng tôi báo cáo lại những bệnh nhân đã mổ, đánh giá lại quá trình điều trị để rút kinh nghiệm nhằm giảm tỷ lệ tử vong trong chữa dị tật này.
Mục tiêu nghiên cứu
–    Mô tả triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng để chẩn đoán teo thực quản.
–    Đánh giá kêt quả điều trị.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu
Những bệnh nhân bị teo thực quản được mổ tại Bệnh viện Việt-Đức từ 2001 – 2009.
Phương pháp nghiên cứu Hồi cứu, mô tả.

Teo thực quản được William Durston mô tả lần đầu tiên vào năm 1670. Năm 1913, Richier mổ thắt đường rò khí – thực quản. Năm 1929, Vogt đã mô tả các dị dạng của thực quản, trong đó có thể bệnh rò khí – thực quản. Vào cuối những năm 30, nhiều tác giả đã mô tả các phương pháp nhiều thì mổ chữa teo thực quản. Tới năm 1935, một bệnh nhân (BN) đầu tiên sống nhờ mở thông dạ dày. Năm 1941, Bệnh nhân đầu tiên được mổ cứu sống bằng cắt-thắt đường rò và nối thực quản ngay bởi Cameron Haight. Từ những năm 50, phương pháp mổ một thì đã ra đời và tỷ lệ sống sau mổ ngày một cao nhờ tien bộ của gây mê – hồi sức, của kỹ thuật điều trị trước, trong và sau mổ. Cho tới nay teo thực quản vẫn là một cấp cứu ngoại nhi thuộc loại khó điều trị và tỷ lệ tử vong cao. Tỷ lệ sống phụ thuộc chẩn đoán sớm, kỹ thuật mổ và điều trị trước – sau mổ và tình trạng bệnh nhân(1’2’10’9’12). ở Việt nam: bệnh nhân đầu tiên được mổ cứu sống tại Bệnh viện Nhi Trung ương vào năm 1987(8). Tiêp đó một số” trung tâm ngoại khoa lớn trong nước cũng thông báo kết quả mổ thành công bệnh nhân đầu tiên của mình như Bệnh viện Nhi Đồng I vào năm 1997(6), Bệnh viện Trung ương Huê” vào năm 1998(5)… Tại Bệnh viện Việt-Đức, bệnh nhân được mổ đầu tiên và sống vào năm 2001(11). Tới nay, chúng tôi đã mổ 15 bệnh nhân với kết quả sống 10 và chêt 4 và 1 BN đang điều trị thì gia đình xin về. Chúng tôi báo cáo lại những bệnh nhân đã mổ, đánh giá lại quá trình điều trị để rút kinh nghiệm nhằm giảm tỷ lệ tử vong trong chữa dị tật này.
Mục tiêu nghiên cứu
–    Mô tả triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng để chẩn đoán teo thực quản.
–    Đánh giá kêt quả điều trị.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu
Những bệnh nhân bị teo thực quản được mổ tại Bệnh viện Việt-Đức từ 2001 – 2009.
Phương pháp nghiên cứu Hồi cứu, mô tả.


Đánh giá kết quả điều trị teo thực quản báo cáo 15 bệnh nhân “


   

IDM

( TẮT NÓ TRƯỚC KHI TẢI TÀI LIỆU )

KHI CÓ LỖI LIÊN QUAN ĐẾN NẠPTRỪ ĐIỂM, TÀI LIỆU CHỈ CÓ MỘT PHẦN XIN VUI LÒNG LIÊN HÊ BỘ PHẬN HỖ TRỢ.

NẠP

TRỪ

CHỈ CÓ MỘT PHẦN

( 24/24H )

( 8AM – 8PM )

|

|

|

|

|