About this capture
Alexa Crawls
Alexa Crawls
Basedow là bệnh cường năng tuyến giáp trong đó tổ chức tuyến giáp phì đại thành bướu lan toả, hoạt động chức năng tăng mạnh, sản xuất ra một lượng hormon quá nhiều vượt nhu cầu bình thường của cơ thể, gây ra tình trạng nhiễm độc hormon tuyến giáp. Đây là bệnh nội tiết phổ biến ở nước ta, thường gặp ở nữ lứa tuổi khoảng từ 20 – 40. Bệnh có thể điều trị nội khoa bằng các thuốc kháng giáp trạng tổng hợp hoặc phẫu thuật cắt bỏ một phần bướu tuyến hoặc điều trị bằng kỹ thuật y học hạt nhân [5, 7].
Nguyên lý của phương pháp sử dụng I131 để điều trị bệnh Basedow dựa trên cơ sở quá trình hấp thu và chuyển hoá Iode trong cơ thể. Iode là nguyên liệu để tuyến giáp tổng hợp hormon. Bình thường Iode sau khi hấp thu vào máu sẽ tập trung dần vào tuyến giáp nhờ cơ chế vận chuyển tích cực để tế bào biểu mô tuyến giáp sử dụng tổng hợp hormon. Trong cơ thể, I131 có cùng quá trình chuyển hoá như Iode thường nên sau khi uống sẽ được hấp thu vào máu và I131 sẽ tập trung vào tổ chức tuyến giáp. Trong bệnh Basedow, hoạt động chức năng tổng hợp hormon của tuyến giáp tăng mạnh bởi vậy lượng I131 tập trung tại bướu cao gấp hàng ngàn lần so với tổ chức xung quanh. Bức xạ bê – ta do I131 phát ra sẽ phát huy tác dụng tiêu diệt tế bào bướu, xơ hóa các mạch máu nhỏ làm giảm nguồn nuôi dưỡng bướu. Kết quả là bướu tuyến nhỏ lại, hoạt động chức năng giảm dần để trở về bình thường. Việc sử dụng Iode phóng xạ I131 điều trị bệnh Basedow đã được áp dụng từ lâu ở các nước phát triển và đã thu được kết quả rất tốt đẹp, đem lại một phương pháp điều trị hữu hiệu cho bệnh nhân [1, 6, 8, 9, 10].
Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu bệnh viện Bạch Mai là một trong những cơ sở đầu tiên của nước ta áp dụng phương pháp điều trị này. Đến nay, hàng ngàn bệnh nhân đã được điều trị. Nghiên cứu được tiến hành để đánh giá một số bệnh nhân Basedow đã được điều trị bằng I131 có đủ các thông tin cần thiết nhằm các mục tiêu:
1. Đánh giá tính an toàn và hiệu quả của phương pháp điều trị bệnh Basedow bằng I131.
2. Nhận xét giá trị của phương pháp sử dụng I131 trong điều trị bệnh Basedow.
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
– 550 bệnh nhân chẩn đoán xác định Basedow điều trị bằng I131 tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu bệnh viện Bạch Mai.
– Tiêu chuẩn loại trừ: bệnh nhân có chống chỉ định sử dụng thuốc phóng xạ (phụ nữ có thai, phụ nữ đang cho con bú). Bệnh nhân có tiền sử dị ứng Iode. Bệnh nhân hồ sơ bệnh án không có đủ thông tin cần thiết cho nghiên cứu.
2. Dược chất phóng xạ
Iode phóng xạ I131 sử dụng điều trị là NaI dạng dung dịch, do hãng Izotop (Hungary), hãng CIS – Bio International (Pháp) hoặc viện nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt sản xuất với các đặc điểm: thời gian bán rã vật lý T 1/2 = 8,02 ngày, năng lượng bức xạ gamma là 360 Kev, năng lượng bức xạ beta là 0,6 – 0,8Mev.
3. Các bước tiến hành
– Bệnh nhân được khám lâm sàng và làm các xét nghiệm để có các chỉ tiêu:
Thể trạng, tình trạng bướu tuyến giáp, dấu hiệu về mắt, dấu hiệu run đầu chi, triệu chứng về tim mạch, tiêu hoá, thần kinh, công thức máu hoặc huyết đồ, các chỉ tiêu sinh hoá máu, siêu âm tuyến giáp, xạ hình tuyến giáp, độ tập trung I131 ở tuyến giáp, nồng độ hormon tuyến giáp và TSH trong máu.
Đây là các chỉ tiêu xác định bệnh để đánh giá mức độ cường giáp và các biến chứng của nó và đây cũng là các chỉ tiêu đánh giá kết quả điều trị .
– Xác định liều I131 điều trị:
Căn cứ vào thể trạng bệnh nhân, tình trạng bướu giáp, mức độ cường năng của bệnh nhân để xác định liều Iode điều trị và cách thức phân bố liều. Hiện có nhiều phương pháp để xác định liều lượng phóng xạ cho điều trị. Chúng tôi áp dụng cách xác định liều theo công thức: D = C x W/U. Trong đó D là liều I131 chỉ định cho bệnh (mCi), C là lượng I131 tính bằng mCi cho 1g trọng lượng tuyến giáp, W là trọng lượng tuyến giáp tính bằng gam, U là độ tập trung I131 ở tuyến giáp sau 24 giờ (%).
Liều I131 đã chỉ định được lấy riêng rẽ và đo kiểm tra lại hoạt độ phóng xạ bằng máy đo liều Radioistope Callibrator CRC – 10R do hãng Capintec (Hoa Kỳ) sản xuất cho từng bệnh nhân uống hoặc tiêm tĩnh mạch.Bệnh nhân sau khi nhận liều sẽ được theo dõi để xử lý kịp thời những biến chứng nếu có và bảo đảm an toàn vệ sinh phóng xạ cho môi trường.
– Kiểm tra, theo dõi, và đánh giá kết quả sau điều trị:
Khi bệnh nhân xuất viện được hẹn tái khám sau 6 tháng, kết quả điều trị được đánh giá theo các chỉ tiêu như đã nêu trên.
Đề tài được tiến hành theo phương pháp nghiên cứu hồi cứu trên các đối tượng là các bệnh nhân Basedow, điều trị bằng I131 tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu bệnh viện Bạch Mai từ năm 1980 – 2008. Các số liệu được xử lý theo chương trình thống kê Y học
Basedow là bệnh cường năng tuyến giáp trong đó tổ chức tuyến giáp phì đại thành bướu lan toả, hoạt động chức năng tăng mạnh, sản xuất ra một lượng hormon quá nhiều vượt nhu cầu bình thường của cơ thể, gây ra tình trạng nhiễm độc hormon tuyến giáp. Đây là bệnh nội tiết phổ biến ở nước ta, thường gặp ở nữ lứa tuổi khoảng từ 20 – 40. Bệnh có thể điều trị nội khoa bằng các thuốc kháng giáp trạng tổng hợp hoặc phẫu thuật cắt bỏ một phần bướu tuyến hoặc điều trị bằng kỹ thuật y học hạt nhân [5, 7].
Nguyên lý của phương pháp sử dụng I131 để điều trị bệnh Basedow dựa trên cơ sở quá trình hấp thu và chuyển hoá Iode trong cơ thể. Iode là nguyên liệu để tuyến giáp tổng hợp hormon. Bình thường Iode sau khi hấp thu vào máu sẽ tập trung dần vào tuyến giáp nhờ cơ chế vận chuyển tích cực để tế bào biểu mô tuyến giáp sử dụng tổng hợp hormon. Trong cơ thể, I131 có cùng quá trình chuyển hoá như Iode thường nên sau khi uống sẽ được hấp thu vào máu và I131 sẽ tập trung vào tổ chức tuyến giáp. Trong bệnh Basedow, hoạt động chức năng tổng hợp hormon của tuyến giáp tăng mạnh bởi vậy lượng I131 tập trung tại bướu cao gấp hàng ngàn lần so với tổ chức xung quanh. Bức xạ bê – ta do I131 phát ra sẽ phát huy tác dụng tiêu diệt tế bào bướu, xơ hóa các mạch máu nhỏ làm giảm nguồn nuôi dưỡng bướu. Kết quả là bướu tuyến nhỏ lại, hoạt động chức năng giảm dần để trở về bình thường. Việc sử dụng Iode phóng xạ I131 điều trị bệnh Basedow đã được áp dụng từ lâu ở các nước phát triển và đã thu được kết quả rất tốt đẹp, đem lại một phương pháp điều trị hữu hiệu cho bệnh nhân [1, 6, 8, 9, 10].
Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu bệnh viện Bạch Mai là một trong những cơ sở đầu tiên của nước ta áp dụng phương pháp điều trị này. Đến nay, hàng ngàn bệnh nhân đã được điều trị. Nghiên cứu được tiến hành để đánh giá một số bệnh nhân Basedow đã được điều trị bằng I131 có đủ các thông tin cần thiết nhằm các mục tiêu:
1. Đánh giá tính an toàn và hiệu quả của phương pháp điều trị bệnh Basedow bằng I131.
2. Nhận xét giá trị của phương pháp sử dụng I131 trong điều trị bệnh Basedow.
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
– 550 bệnh nhân chẩn đoán xác định Basedow điều trị bằng I131 tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu bệnh viện Bạch Mai.
– Tiêu chuẩn loại trừ: bệnh nhân có chống chỉ định sử dụng thuốc phóng xạ (phụ nữ có thai, phụ nữ đang cho con bú). Bệnh nhân có tiền sử dị ứng Iode. Bệnh nhân hồ sơ bệnh án không có đủ thông tin cần thiết cho nghiên cứu.
2. Dược chất phóng xạ
Iode phóng xạ I131 sử dụng điều trị là NaI dạng dung dịch, do hãng Izotop (Hungary), hãng CIS – Bio International (Pháp) hoặc viện nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt sản xuất với các đặc điểm: thời gian bán rã vật lý T 1/2 = 8,02 ngày, năng lượng bức xạ gamma là 360 Kev, năng lượng bức xạ beta là 0,6 – 0,8Mev.
3. Các bước tiến hành
– Bệnh nhân được khám lâm sàng và làm các xét nghiệm để có các chỉ tiêu:
Thể trạng, tình trạng bướu tuyến giáp, dấu hiệu về mắt, dấu hiệu run đầu chi, triệu chứng về tim mạch, tiêu hoá, thần kinh, công thức máu hoặc huyết đồ, các chỉ tiêu sinh hoá máu, siêu âm tuyến giáp, xạ hình tuyến giáp, độ tập trung I131 ở tuyến giáp, nồng độ hormon tuyến giáp và TSH trong máu.
Đây là các chỉ tiêu xác định bệnh để đánh giá mức độ cường giáp và các biến chứng của nó và đây cũng là các chỉ tiêu đánh giá kết quả điều trị .
– Xác định liều I131 điều trị:
Căn cứ vào thể trạng bệnh nhân, tình trạng bướu giáp, mức độ cường năng của bệnh nhân để xác định liều Iode điều trị và cách thức phân bố liều. Hiện có nhiều phương pháp để xác định liều lượng phóng xạ cho điều trị. Chúng tôi áp dụng cách xác định liều theo công thức: D = C x W/U. Trong đó D là liều I131 chỉ định cho bệnh (mCi), C là lượng I131 tính bằng mCi cho 1g trọng lượng tuyến giáp, W là trọng lượng tuyến giáp tính bằng gam, U là độ tập trung I131 ở tuyến giáp sau 24 giờ (%).
Liều I131 đã chỉ định được lấy riêng rẽ và đo kiểm tra lại hoạt độ phóng xạ bằng máy đo liều Radioistope Callibrator CRC – 10R do hãng Capintec (Hoa Kỳ) sản xuất cho từng bệnh nhân uống hoặc tiêm tĩnh mạch.Bệnh nhân sau khi nhận liều sẽ được theo dõi để xử lý kịp thời những biến chứng nếu có và bảo đảm an toàn vệ sinh phóng xạ cho môi trường.
– Kiểm tra, theo dõi, và đánh giá kết quả sau điều trị:
Khi bệnh nhân xuất viện được hẹn tái khám sau 6 tháng, kết quả điều trị được đánh giá theo các chỉ tiêu như đã nêu trên.
Đề tài được tiến hành theo phương pháp nghiên cứu hồi cứu trên các đối tượng là các bệnh nhân Basedow, điều trị bằng I131 tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu bệnh viện Bạch Mai từ năm 1980 – 2008. Các số liệu được xử lý theo chương trình thống kê Y học
Mục tiêu: đánh giá tính an toàn và hiệu quả của phương pháp điều trị bệnh Basedow bằng I131; Nhận xét vai trò của phương pháp sử dụng I131 trong điều trị bệnh Basedow. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 550 bệnh nhân Basedow được điều trị bằng I131. Kết quả: 85% bệnh nhân tăng cân, 90% bướu giáp nhỏ đi rõ rệt, 95% cải thiện dấu hiệu về mắt, 90% cải thiện các dấu hiệu về tim mạch, các biểu hiện như run đầu chi, rối loạn tiêu hoá được cải thiện rõ ở 100% các trường hợp. Các chỉ số hormon tuyến giáp và TSH trở về bình thường ở các bệnh nhân bình giáp. Liều I131 trung bình cho một bệnh nhân là 6,25 ± 1,12 mCi, số lần điều trị trung bình cho một bệnh nhân là 1,3 lần. Không có các biến chứng sớm, tỷ lệ nhược giáp sau 12 tháng là 3%, sau 4 năm là 7,6%, sau 10 năm là 14,8%. Kết luận: điều trị bệnh Basedow bằng I131 là phương pháp an toàn và hiệu quả 80% khỏi bệnh sau liều điều trị thứ nhất, 15% sau liều điều trị thứ 2 và 5% sau liều điều trị thứ 3. I131 có vai trò rất quan trọng trong điều trị bệnh Basedow bởi vì I131 không chỉ đem lại kết quả tốt cho các bệnh nhân mới mà còn là phương pháp hữu hiệu cho những trường hợp điều trị nội khoa thất bại, dị ứng thuốc kháng giáp trạng tổng hợp hoặc những bệnh nhân tái phát sau phẫu thuật.
Mục tiêu: đánh giá tính an toàn và hiệu quả của phương pháp điều trị bệnh Basedow bằng I131; Nhận xét vai trò của phương pháp sử dụng I131 trong điều trị bệnh Basedow. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 550 bệnh nhân Basedow được điều trị bằng I131. Kết quả: 85% bệnh nhân tăng cân, 90% bướu giáp nhỏ đi rõ rệt, 95% cải thiện dấu hiệu về mắt, 90% cải thiện các dấu hiệu về tim mạch, các biểu hiện như run đầu chi, rối loạn tiêu hoá được cải thiện rõ ở 100% các trường hợp. Các chỉ số hormon tuyến giáp và TSH trở về bình thường ở các bệnh nhân bình giáp. Liều I131 trung bình cho một bệnh nhân là 6,25 ± 1,12 mCi, số lần điều trị trung bình cho một bệnh nhân là 1,3 lần. Không có các biến chứng sớm, tỷ lệ nhược giáp sau 12 tháng là 3%, sau 4 năm là 7,6%, sau 10 năm là 14,8%. Kết luận: điều trị bệnh Basedow bằng I131 là phương pháp an toàn và hiệu quả 80% khỏi bệnh sau liều điều trị thứ nhất, 15% sau liều điều trị thứ 2 và 5% sau liều điều trị thứ 3. I131 có vai trò rất quan trọng trong điều trị bệnh Basedow bởi vì I131 không chỉ đem lại kết quả tốt cho các bệnh nhân mới mà còn là phương pháp hữu hiệu cho những trường hợp điều trị nội khoa thất bại, dị ứng thuốc kháng giáp trạng tổng hợp hoặc những bệnh nhân tái phát sau phẫu thuật.
”
Đánh giá kết quả điều trị bệnh Basedow bằng Iode phóng xạ I131 tại bệnh viện Bạch Mai “
Nhấn Like bạn có cơ hội nhận 30.000 điểm.
Để tải tài liệu về máy.
Để tìm hiểu các phương án nạp điểm ưu việt.
Để tìm hiểu các phương án nạp điểm ưu việt.
KHI CÓ LỖI LIÊN QUAN ĐẾN NẠP VÀ TRỪ ĐIỂM, TÀI LIỆU CHỈ CÓ MỘT PHẦN XIN VUI LÒNG LIÊN HÊ BỘ PHẬN HỖ TRỢ.
NẠP
TRỪ
CHỈ CÓ MỘT PHẦN
✉
( 24/24H )
☎
( 8AM – 12PM )
|
|
|
|
|