Điều trị phẫu thuật u mỡ sau phúc mạc tại bệnh viện Việt Đức

About this capture

Common Crawl

 U sau phúc mạc tiên phát là tập hợp các loại u phát triển ở trong khoang sau phúc mạc, loại u này hiếm gặp và rất đa dạng, chúng không có nguồn gốc thực sự từ các tạng sau phúc mạc (thận, tuyến thượng thận, niệu quản…). Nguồn gốc mô bệnh học cũng khác nhau, chúng phát sinh từ trung mô, thần kinh, tế bào mầm hay các nang sau phúc mạc. U sau phúc mạc chiếm khoảng 0,5% của các khối u ác tính và khoảng 0,16% của tất cả các loại khối u [20]. Mức độ lành tính và ác tính khác nhau nhưng chủ yếu là ác tính, khoảng 90% [17]

 U sau phúc mạc tiên phát là tập hợp các loại u phát triển ở trong khoang sau phúc mạc, loại u này hiếm gặp và rất đa dạng, chúng không có nguồn gốc thực sự từ các tạng sau phúc mạc (thận, tuyến thượng thận, niệu quản…). Nguồn gốc mô bệnh học cũng khác nhau, chúng phát sinh từ trung mô, thần kinh, tế bào mầm hay các nang sau phúc mạc. U sau phúc mạc chiếm khoảng 0,5% của các khối u ác tính và khoảng 0,16% của tất cả các loại khối u [20]. Mức độ lành tính và ác tính khác nhau nhưng chủ yếu là ác tính, khoảng 90% [17]

U mỡ sau phúc mạc là một loại trong các u sau phúc mạc, đây là loại u có nguồn gốc từ trung mô, bao gồm u mỡ lành tính và u mỡ ác tính, u mỡ lành tính là tập hợp các tế bào mỡ trưởng thành phát triển thành khối có ranh giới rõ. U mỡ ác tính là tập hợp các tế bào mỡ chưa trưởng thành phát triển đơn dòng, có tính chất ác tính (thành khối, không có ranh giới, phát triển không hạn định, có xâm nhập và di căn), loại u này rất hiếm gặp. Chúng chiếm khoảng 0,8% trong các loại u sau phúc mạc và chiếm khoảng 15% các loại ung thư mỡ [10],[13]. Tại bệnh viện Việt Đức, thống kê từ năm 1991 đến năm 1999 có 119 trường hợp u sau phúc mạc thì chỉ có 1 trường hợp u mỡ ác tính, chiếm 0,8% [10]. Thống kê tại bệnh viện Charity (Mỹ), từ 1948 đến 1962 có 41 u sau phúc mạc chiếm tỉ lệ 0,16% các khối u ác tính và cũng chỉ có 1 trường hợp u mỡ ác tính. Một thống kê khác tại Slovenia từ năm 1975-2000, có 155 u sau phúc mạc nhưng chỉ có 2 u mỡ ác tính [47].

U mỡ sau phúc mạc là một loại trong các u sau phúc mạc, đây là loại u có nguồn gốc từ trung mô, bao gồm u mỡ lành tính và u mỡ ác tính, u mỡ lành tính là tập hợp các tế bào mỡ trưởng thành phát triển thành khối có ranh giới rõ. U mỡ ác tính là tập hợp các tế bào mỡ chưa trưởng thành phát triển đơn dòng, có tính chất ác tính (thành khối, không có ranh giới, phát triển không hạn định, có xâm nhập và di căn), loại u này rất hiếm gặp. Chúng chiếm khoảng 0,8% trong các loại u sau phúc mạc và chiếm khoảng 15% các loại ung thư mỡ [10],[13]. Tại bệnh viện Việt Đức, thống kê từ năm 1991 đến năm 1999 có 119 trường hợp u sau phúc mạc thì chỉ có 1 trường hợp u mỡ ác tính, chiếm 0,8% [10]. Thống kê tại bệnh viện Charity (Mỹ), từ 1948 đến 1962 có 41 u sau phúc mạc chiếm tỉ lệ 0,16% các khối u ác tính và cũng chỉ có 1 trường hợp u mỡ ác tính. Một thống kê khác tại Slovenia từ năm 1975-2000, có 155 u sau phúc mạc nhưng chỉ có 2 u mỡ ác tính [47].

Việc chẩn đoán, điều trị u sau phúc mạc nói chung và u mỡ sau phúc mạc nói riêng luôn là vấn đề không dễ dàng cho thầy thuốc, vì bệnh cảnh lâm sàng đa dạng, u nằm sâu trong cơ thể nơi có nhiều tạng nguy hiểm. Theo Lê Ngọc Thành tỉ lệ chẩn đoán sai là 69% [13], theo nghiên cứu của Hoàng Dương Vương là 28,7% [20]. Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện chẩn đoán hình ảnh, nhất là CT scanner và MRI đã giúp cho chẩn đoán khối u sau phúc mạc chính xác, nhưng việc chẩn đoán bản chất mô bệnh học của khối u trước mổ vẫn còn rất khó khăn.

Việc chẩn đoán, điều trị u sau phúc mạc nói chung và u mỡ sau phúc mạc nói riêng luôn là vấn đề không dễ dàng cho thầy thuốc, vì bệnh cảnh lâm sàng đa dạng, u nằm sâu trong cơ thể nơi có nhiều tạng nguy hiểm. Theo Lê Ngọc Thành tỉ lệ chẩn đoán sai là 69% [13], theo nghiên cứu của Hoàng Dương Vương là 28,7% [20]. Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện chẩn đoán hình ảnh, nhất là CT scanner và MRI đã giúp cho chẩn đoán khối u sau phúc mạc chính xác, nhưng việc chẩn đoán bản chất mô bệnh học của khối u trước mổ vẫn còn rất khó khăn.

Điều trị u mỡ sau phúc mạc chủ yếu là ngoại khoa, việc lấy hết u vẫn là tiêu chuẩn vàng trong điều trị, tuy nhiên đó là điều không dễ dàng, can thiệp ngoại khoa đòi hỏi phẫu thuật viên nhiều kinh nghiệm, phương tiện dụng cụ chuyên sâu và có sự kết hợp nhiều chuyên khoa. Mặc dù vậy, sau phẫu thuật loại u này rất hay tái phát, nhất là với u mỡ ác tính, tiên lượng sống sau mổ của loại u này tuỳ từng tác giả. Theo Laqbaqbi A [22] tỉ lệ tái phát u khoảng 50% và tiên lượng xấu, thời gian sống trung bình là 1 năm. Theo Eninger (trích dẫn từ tài liệu tham khảo [6]) có khả quan hơn: Tỉ lệ sống sau 5 năm khoảng 83% trong nhóm biệt hoá cao, 77% trong thể dạng nhày và thấp nhất là 18% trong thể hỗn hợp. Ở nước ta đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề u sau phúc mạc như: Lê Ngọc Thành [13] với “Góp phần chẩn đoán các khối u sau phúc mạc”. Hoàng Dương Vương [20] với “Nghiên cứu chẩn đoán lâm sàng và cận lâm sàng của các u sau phúc mạc thường gặp tại bệnh viện Việt Đức” và gần đây nhất là Phạm Quang Hà [17] với “Nghiên cứu chẩn đoán và điều trị các khối u sau phúc mạc tại bệnh viện Việt Đức”. Các nghiên cứu trên đã tổng kết được các triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng và thống kê được các phương pháp điều trị u sau phúc mạc nói chung, tuy nhiên chưa đề cập được cụ thể cho từng loại u sau phúc mạc. Chúng tôi chưa thấy có công trình nghiên cứu nào về bệnh lý u mỡ sau phúc mạc.

Điều trị u mỡ sau phúc mạc chủ yếu là ngoại khoa, việc lấy hết u vẫn là tiêu chuẩn vàng trong điều trị, tuy nhiên đó là điều không dễ dàng, can thiệp ngoại khoa đòi hỏi phẫu thuật viên nhiều kinh nghiệm, phương tiện dụng cụ chuyên sâu và có sự kết hợp nhiều chuyên khoa. Mặc dù vậy, sau phẫu thuật loại u này rất hay tái phát, nhất là với u mỡ ác tính, tiên lượng sống sau mổ của loại u này tuỳ từng tác giả. Theo Laqbaqbi A [22] tỉ lệ tái phát u khoảng 50% và tiên lượng xấu, thời gian sống trung bình là 1 năm. Theo Eninger (trích dẫn từ tài liệu tham khảo [6]) có khả quan hơn: Tỉ lệ sống sau 5 năm khoảng 83% trong nhóm biệt hoá cao, 77% trong thể dạng nhày và thấp nhất là 18% trong thể hỗn hợp. Ở nước ta đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề u sau phúc mạc như: Lê Ngọc Thành [13] với “Góp phần chẩn đoán các khối u sau phúc mạc”. Hoàng Dương Vương [20] với “Nghiên cứu chẩn đoán lâm sàng và cận lâm sàng của các u sau phúc mạc thường gặp tại bệnh viện Việt Đức” và gần đây nhất là Phạm Quang Hà [17] với “Nghiên cứu chẩn đoán và điều trị các khối u sau phúc mạc tại bệnh viện Việt Đức”. Các nghiên cứu trên đã tổng kết được các triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng và thống kê được các phương pháp điều trị u sau phúc mạc nói chung, tuy nhiên chưa đề cập được cụ thể cho từng loại u sau phúc mạc. Chúng tôi chưa thấy có công trình nghiên cứu nào về bệnh lý u mỡ sau phúc mạc.

Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị phẫu thuật u mỡ sau phúc mạc tại bệnh viện Việt Đức” nhằm các mục đích:

Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị phẫu thuật u mỡ sau phúc mạc tại bệnh viện Việt Đức” nhằm các mục đích:

1.  Mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của u mỡ sau phúc mạc.

1.  Mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của u mỡ sau phúc mạc.

2.  Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật của u mỡ sau phúc mạc.

2.  Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật của u mỡ sau phúc mạc.


Điều trị phẫu thuật u mỡ sau phúc mạc tại bệnh viện Việt Đức “


   

IDM

( TẮT NÓ TRƯỚC KHI TẢI TÀI LIỆU )

KHI CÓ LỖI LIÊN QUAN ĐẾN NẠPTRỪ ĐIỂM, TÀI LIỆU CHỈ CÓ MỘT PHẦN XIN VUI LÒNG LIÊN HÊ BỘ PHẬN HỖ TRỢ.

NẠP

TRỪ

CHỈ CÓ MỘT PHẦN

( 24/24H )

( 8AM – 8PM )

|

|

|

|

|