Đặc điểm dịch tễ, ảnh hưởng của bệnh sán lá gan nhỏ đến một số chỉ số sinh học chức năng gan và tác dụng điều trị bằng Praziquantel

About this capture

Common Crawl

 Theo thống kê của Tổ chức y tế thế giới, hiện có khoảng 23 triệu người trên thế giới nhiễm sán lá gan nhỏ, trong đó khoảng 1 triệu người châu Âu nhiễm Opisthorchis felineus, 3 triệu người nhiễm Opisthorchis viverrini, và ít nhất 19 triệu người nhiễm Opisthorchis sinensis (Clonorchis sinensis).

 Theo thống kê của Tổ chức y tế thế giới, hiện có khoảng 23 triệu người trên thế giới nhiễm sán lá gan nhỏ, trong đó khoảng 1 triệu người châu Âu nhiễm Opisthorchis felineus, 3 triệu người nhiễm Opisthorchis viverrini, và ít nhất 19 triệu người nhiễm Opisthorchis sinensis (Clonorchis sinensis).

C. sinensis phân bố rộng rãi ở Trung Quốc và Đông Nam châu Á gồm Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, và phía bắc Việt Nam. Trong quá khứ, C. sinensis rất phổ biến ở Nhật Bản, hiện nay tỷ lệ nhiễm ở mức không đáng kể. Như vậy C. sinensis chỉ còn là vấn đề của các nước Trung Quốc, Hàn Quốc và Việt Nam.

C. sinensis phân bố rộng rãi ở Trung Quốc và Đông Nam châu Á gồm Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, và phía bắc Việt Nam. Trong quá khứ, C. sinensis rất phổ biến ở Nhật Bản, hiện nay tỷ lệ nhiễm ở mức không đáng kể. Như vậy C. sinensis chỉ còn là vấn đề của các nước Trung Quốc, Hàn Quốc và Việt Nam.

Cho đến nay, sán lá gan nhỏ đã được xác định ở ít nhất 12 tỉnh phía bắc Việt Nam. Các ổ dịch tễ với tỷ lệ nhiễm sán lá gan nhỏ cao thường ở những địa phương, nơi có tập quán ăn gỏi cá như Ninh Bình, Nam Định và Thanh Hoá. Các trường hợp nhiễm sán thường không có biểu hiện lâm sàng rõ rệt, nhiều người không biết bản thân có nhiễm sán. Nói cách khác, công đồng ít biết và quan tâm đến công tác phòng trị. Có thể đây là một trong những yếu tố làm cho nhiều ổ sán lá gan nhỏ còn đang lưu hành rông rãi ảnh hưởng đến sức khoẻ của nhân dân. Tuy hiếm, nhưng đã có 2 trường hợp trẻ em ở Nam Định tử vong tại bệnh viện Bạch Mai năm 1975 với chẩn đoán chính thức là do C. sinensis. Hiện còn thiếu nhiều thông tin khoa học về sự ảnh hưởng của sán đến sức khoẻ người Việt Nam, việc xác định ảnh hưởng của sán đến chức năng gan mật sẽ có nhiều ý nghĩa khoa học và thực tiễn.

Cho đến nay, sán lá gan nhỏ đã được xác định ở ít nhất 12 tỉnh phía bắc Việt Nam. Các ổ dịch tễ với tỷ lệ nhiễm sán lá gan nhỏ cao thường ở những địa phương, nơi có tập quán ăn gỏi cá như Ninh Bình, Nam Định và Thanh Hoá. Các trường hợp nhiễm sán thường không có biểu hiện lâm sàng rõ rệt, nhiều người không biết bản thân có nhiễm sán. Nói cách khác, công đồng ít biết và quan tâm đến công tác phòng trị. Có thể đây là một trong những yếu tố làm cho nhiều ổ sán lá gan nhỏ còn đang lưu hành rông rãi ảnh hưởng đến sức khoẻ của nhân dân. Tuy hiếm, nhưng đã có 2 trường hợp trẻ em ở Nam Định tử vong tại bệnh viện Bạch Mai năm 1975 với chẩn đoán chính thức là do C. sinensis. Hiện còn thiếu nhiều thông tin khoa học về sự ảnh hưởng của sán đến sức khoẻ người Việt Nam, việc xác định ảnh hưởng của sán đến chức năng gan mật sẽ có nhiều ý nghĩa khoa học và thực tiễn.

Từ cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 Bô Y tế đã quan tâm giải quyết vấn đề sán lá gan nhỏ ở những vùng dịch tễ. Những điều tra cắt ngang đã cung cấp thông tin về tỷ lệ nhiễm sán theo thời gian và một số hiểu biết về lưu hành bệnh học của các ổ dịch tễ. Trong điều trị, nhiều công trình nghiên cứu tìm ra loại thuốc và phác đồ có hiệu quả ngày càng cao hơn đã được thực hiện tại bệnh viện cũng như thực địa: Nivaquine và Emetine ở thập kỷ 60, Cloxyl và Delagyl thập kỷ 70-80, Albendazol và Praziquantel cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90. Praziquantel bắt đầu được dùng trong tẩy sán lá trên thế giới từ những năm cuối thập kỷ 70, ở Việt Nam vào cuối những năm cuối thập kỷ 80 và hiên đang là thuốc có hiệu quả cao nhất trong điều trị sán lá gan nhỏ. Hầu hết các phác đồ Praziquantel đã thử nghiệm có hiệu quả cao trong điều kiện bệnh viện, nhưng khi áp dụng tại thực địa thường cho tỷ lệ sạch sán thấp hơn và biến động theo điểm thử nghiệm. Trong khi không còn nghi ngờ gì về hiệu lực của Praziquantel đối với sán lá gan nhỏ, tính không ổn định của các phác đổ tại thực địa ám chỉ tính phù hợp và dễ chấp nhận của công đổng đóng vai trò quan trọng và việc xác định được một phác đổ có hiệu quả cao tại thực địa là hết sức cần thiết.

Từ cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 Bô Y tế đã quan tâm giải quyết vấn đề sán lá gan nhỏ ở những vùng dịch tễ. Những điều tra cắt ngang đã cung cấp thông tin về tỷ lệ nhiễm sán theo thời gian và một số hiểu biết về lưu hành bệnh học của các ổ dịch tễ. Trong điều trị, nhiều công trình nghiên cứu tìm ra loại thuốc và phác đồ có hiệu quả ngày càng cao hơn đã được thực hiện tại bệnh viện cũng như thực địa: Nivaquine và Emetine ở thập kỷ 60, Cloxyl và Delagyl thập kỷ 70-80, Albendazol và Praziquantel cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90. Praziquantel bắt đầu được dùng trong tẩy sán lá trên thế giới từ những năm cuối thập kỷ 70, ở Việt Nam vào cuối những năm cuối thập kỷ 80 và hiên đang là thuốc có hiệu quả cao nhất trong điều trị sán lá gan nhỏ. Hầu hết các phác đồ Praziquantel đã thử nghiệm có hiệu quả cao trong điều kiện bệnh viện, nhưng khi áp dụng tại thực địa thường cho tỷ lệ sạch sán thấp hơn và biến động theo điểm thử nghiệm. Trong khi không còn nghi ngờ gì về hiệu lực của Praziquantel đối với sán lá gan nhỏ, tính không ổn định của các phác đổ tại thực địa ám chỉ tính phù hợp và dễ chấp nhận của công đổng đóng vai trò quan trọng và việc xác định được một phác đổ có hiệu quả cao tại thực địa là hết sức cần thiết.

Công tác phòng trị bệnh nói chung và điều trị đặc hiệu tại công đổng nói riêng cần phải dựa trên cơ sở hiểu biết về dịch tễ học. Những thông tin dịch tễ học là cần thiết cho việc theo dõi đánh giá hiệu quả của phác đổ trong khung cảnh dịch tễ cụ thể. Đây cũng là vấn đề cần thiết được quan tâm tìm hiểu trong quá trình nghiên cứu khoa học và áp dụng phác đổ tại công đổng.

Công tác phòng trị bệnh nói chung và điều trị đặc hiệu tại công đổng nói riêng cần phải dựa trên cơ sở hiểu biết về dịch tễ học. Những thông tin dịch tễ học là cần thiết cho việc theo dõi đánh giá hiệu quả của phác đổ trong khung cảnh dịch tễ cụ thể. Đây cũng là vấn đề cần thiết được quan tâm tìm hiểu trong quá trình nghiên cứu khoa học và áp dụng phác đổ tại công đổng.

Xuất phát từ những yêu cầu khoa học và thực tiễn trên đây, chúng tôi nghiên cứu đề tài:

Xuất phát từ những yêu cầu khoa học và thực tiễn trên đây, chúng tôi nghiên cứu đề tài:

Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ, ảnh hưởng của bệnh sán lá gan nhỏ đến một số chỉ số sinh học chức năng gan và tác dụng điều trị bằng Praziquantel với 3 mục tiêu sau:

Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ, ảnh hưởng của bệnh sán lá gan nhỏ đến một số chỉ số sinh học chức năng gan và tác dụng điều trị bằng Praziquantel với 3 mục tiêu sau:

Xác định loài sán và một số đặc điểm dịch tễ học nhiễm sán lá gan nhỏ tại điểm nghiên cứu.

Xác định loài sán và một số đặc điểm dịch tễ học nhiễm sán lá gan nhỏ tại điểm nghiên cứu.

Xác định biểu hiện lâm sàng và ảnh hưởng của sán lá gan nhỏ đến một số chỉ số sinh hoá liên quan đến chức năng gan.

Xác định biểu hiện lâm sàng và ảnh hưởng của sán lá gan nhỏ đến một số chỉ số sinh hoá liên quan đến chức năng gan.

Đánh giá hiệu quả điều trị sán lá gan nhỏ tại thực địa của phác đồ Praziquantel liều 25 mg/kg x 3 lần/ngày x 1 ngày và khả năng áp dụng trong cộng đổng.

Đánh giá hiệu quả điều trị sán lá gan nhỏ tại thực địa của phác đồ Praziquantel liều 25 mg/kg x 3 lần/ngày x 1 ngày và khả năng áp dụng trong cộng đổng.


Đặc điểm dịch tễ, ảnh hưởng của bệnh sán lá gan nhỏ đến một số chỉ số sinh học chức năng gan và tác dụng điều trị bằng Praziquantel “


   

IDM

( TẮT NÓ TRƯỚC KHI TẢI TÀI LIỆU )

KHI CÓ LỖI LIÊN QUAN ĐẾN NẠPTRỪ ĐIỂM, TÀI LIỆU CHỈ CÓ MỘT PHẦN XIN VUI LÒNG LIÊN HÊ BỘ PHẬN HỖ TRỢ.

NẠP

TRỪ

CHỈ CÓ MỘT PHẦN

( 24/24H )

( 8AM – 8PM )

|

|

|

|

|